(CATP) Phía sau sự trầm trồ, thán phục của viễn khách về các công trình đền đài, lăng tẩm của quần thể di tích cố đô (được Unesco công nhận di sản thế giới từ năm 1993), ở Huế còn đó bao phận người chịu thương, chịu khó. Họ âm thầm mang đến niềm vui cho du khách để kiếm những đồng tiền vất vả lo cho tổ ấm. Họ sót lại sau những giây phút hoan hỉ của lữ thứ xa gần. BỌT SÓNG HƯƠNG GIANG Vạn đò trên sông Hương có lịch sử lâu đời. Theo một giả thuyết thì việc thành lập các vạn đò trên sông Hương được manh nha từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức. Thời đó, các trục lộ trên cạn chưa khai thông, việc di chuyển từ vùng này sang vùng khác, cũng như việc vận chuyển quân lương, khí giới của triều đình nhà Nguyễn phải nhờ vào thủy lộ, cho nên triều đình mới cho lập các vạn đò ở hai bên sông Đông Ba và sông Hương để trưng dụng khi cần. Từ năm 2006, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã có đề án đưa toàn bộ dân vạn đò trên các dòng sông của thành phố Huế lên bờ định cư với tổng kinh phí dự kiến khoảng 236 tỷ đồng. Theo đó, đề án đã diễn ra trong 5 năm, từ năm 2006 cho đến cuối năm 2011. Đến nay, ở một số thị xã xung quanh thành phố như Hương Thủy, Hương Trà là còn các xóm vạn đò còn ở trung tâm Huế thì cư dân vạn đò đã lên bờ, chỉ lái thuyền rồng để làm du lịch kiếm sống qua ngày. Đón chúng tôi ở bến Tòa Khâm, đường Bạch Đằng (phường Phú Hiệp), chị Thành khua mái chèo để đẩy con thuyền ra giữa dòng. Anh Tí thì lúi húi nổ máy ở phía cuối con thuyền. Dưới ánh nắng chiều nhè nhẹ, anh Tí tâm sự: “Từ tết cho đến tháng tư dương lịch thì khách đông, còn những tháng này đến cuối năm thì ít khách dần, không đủ tiền chợ nên chúng tôi phải đi chở cát thuê trên sông. Lắm hôm nhà cũng không có gạo nấu cho sắp nhỏ đâu anh ơi!”. Nói xong, anh phóng tầm mắt ra xa trên dòng Hương, nhìn những bọt sóng nhỏ nhoi với ánh nhìn đượm buồn. Tàu của anh có kí hiệu TTH-0079, thuộc đội 27, hợp tác xã đường sông Huế, riêng đội của anh gồm có sáu thuyền. Mỗi thuyền phải đóng mất khoảng 300 triệu đồng. Dù du khách ít nhưng không có cảnh chen lấn, giành khách mà chủ yếu là khách quen giới thiệu bởi đời sông nước là phải giúp nhau mà sống. Thông thường, nếu khách thuê cả ngày thì vợ chồng anh sẽ đưa đến lăng Khải Định, Tự Đức, Minh Mạng... Giá chỉ một triệu đồng. Nhà thuyền sẽ lo tiền vào bến (10.000 đồng/lượt) cùng với tiền tám lít dầu cả đi lẫn về. Nếu thuê từ chiều tối thì giá chỉ còn phân nửa vì chỉ ghé được chùa Thiên Mụ. Anh Tí nói rằng, chùa Thiên Mụ có tháp Phước Duyên, ra đời từ năm 1844, lại ngẫu nhiên trở thành biểu tượng của đất cố đô. Một ngọn tháp tượng trưng cho “trí tuệ” và “phúc lành” ngày ngày soi bóng xuống sông Hương. Nếu như người La Mã vào đền thờ phải ngước lên để chiêm ngưỡng thì ngược lại, người La Mã lại cúi xuống để suy ngẫm về một thời kì văn minh đã qua. Thiên Mụ với tháp Phước Duyên lại cho người ta cả hai: Ngước lên trời cao để chiêm ngưỡng cuộc đời, số phận, cái cao xa và lại cùng bóng chùa soi mình xuống dòng Hương để quan chiêm bóng Phật, nghĩ về dòng sông huyền thoại. HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH KHÔNG CHUYÊN Khi đã lên bờ rồi, thể nào du khách cũng chọn xích lô là phương tiện để dạo phố, ngắm nhìn sự trầm mặc của đất vua xưa và chụp ảnh hơn là đi taxi. Khi đi trên đường Lê Lợi ngắm vườn tượng của công viên, chúng tôi được một bác xích lô vẫy tay. Ông tên là Dương Văn Hiền (57 tuổi, ngụ phường Phú Xuân) đã có hơn 20 năm gắn bó với nghề mang niềm vui cho lữ thứ. Chiếc xích lô ở Huế rất khác lạ bởi nó chia làm hai băng ghế để chở được cả hai người, giá một tour dạo khắp thành phố chỉ có năm chục nghìn đồng. Bác tài xích lô không nói thách, không hạ giá bởi có một giá bất di bất dịch mà nửa đời người, ông Hiền vẫn thực hiện. Với giá này, mọi người đến Huế đều cho là rất rẻ. Chúng tôi đã đi vào mọi ngõ ngách ở đây và nhận thấy giá thực phẩm, ăn uống, dịch vụ cũng rất rẻ nên dễ dàng lí giải, giá vận tải rẻ là vì vậy. Theo yêu cầu của khách, ông chở chúng tôi đến đại nội rồi dừng ở đó để khách đi vào bên trong chụp ảnh. Sau đại nội, ông chở khách đến Trường Quốc học Huế, đến phường Vĩ Dạ nơi Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, đến chợ Đông Ba hay An Cựu để khách mua ớt cay về Sài Gòn làm quà. Ông già này vừa đi vừa giới thiệu về lịch sử từng nơi như một hướng dẫn viên thực thụ. Ông Hiền bảo: “Đó còn là trách nhiệm, nghĩa vụ và sự tự hào của người dân địa phương đối với bạn bè trong và ngoài nước. Làm sao để họ còn quay lại với mình mới là chuyện quan trọng. Muốn như vậy thì mỗi công dân Huế hãy là một sứ giả du lịch”. Tôi hiểu tâm tư và nhiệt huyết của ông Hiền khác biệt với nhiều trung tâm du lịch của Việt Nam bởi có một thực tế đáng buồn là 80% du khách nước ngoài đến với chúng ta đã một đi, không trở lại bởi cách làm du lịch chụp giật và manh mún. Nếu ai cũng làm điều tương tự như ông Hiền thì hay biết mấy! Đang suy nghĩ miên man, ông Hiền đưa chúng tôi về thực tại khi đạp xe qua đại lộ Lê Duẩn và giới thiệu con đường này là lớn nhất ở Huế, chạy dọc theo sông Hương và tường thành đại nội, lại phủ kín cây xanh, mang nét hiện đại hòa lẫn với quá khứ. Khi dừng xe ở một điểm mua quà lưu niệm, uống vội ly trà đặc sản, ông Hiền chia sẻ, gia đình ông đã có ba con, tất cả đều là thợ sửa xe, không có ai làm nghề nặng nhọc như ông. Ông nói bằng giọng vui: “Nghề này cũng cực lắm, làm vài năm nữa chắc tui cũng giã từ vì già rồi, đạp không nổi đâu”. Nhận tiền bo của khách khi kết thúc hành trình, ông già vui mừng ra mặt vì ít ai cho thêm ông tiền. Ông lau vội những giọt mồ hôi trên khuôn mặt và lưng áo rồi nhắn: “Khi nào cậu ra Huế, hãy gọi cho tui nhé. Tui sẽ đến ngay!”. Bóng ông mất dần trong dòng người đông kịt khi qua cầu An Cựu. Dáng ông nhỏ thó nhưng tinh thần thì rất minh mẫn. Giữa những khách sạn, tòa nhà cao tầng đang làm nên một diện mạo mới lạ của một đô thị, ở Huế vẫn còn lắm người sót lại sau những cuộc vui của du khách. Họ sống và rất có trách nhiệm trong việc quảng bá du lịch cố đô bay đi muôn phương. |
Home
»
»Unlabelled
» Góc khuất giữa lòng di sản thế giới
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét